Nghệ thuật sơn mài độc
đáo
Việc
làm sơn mài luôn phụ thuộc thời tiết - nó rất thích hợp mùa xuân và những ngày
mưa đầu hạ. Điều đó làm ta thấy sự phân bố làm nghề sơn mài không những chia
theo khu vực sản phẩm mà còn có yếu tố liên kết phục vụ lẫn nhau.
Làng
nghề
sơn mài Phù Lào
(Tiên Sơn - Bắc Ninh) thường lấy quỳ vàng, quỳ bạc của làng Kiêu Kị (Gia Lâm),
lấy giấy dó của làng Đông Cao, lấy vải màn của làng Đình Cả, lấy vóc hoặc sản
phẩm chạm khắc của làng Phù Khê, lấy nguồn sơn thô của Phú Thọ, Yên Bái và lấy
nguồn dầu trẩu, dầu trám của Lạng Sơn, Cao Bằng...
Hà Nội ngày nay vẫn là
đầu mối tập trung nguyên liệu và các bậc chế tác nghệ thuật sơn mài nổi tiếng.
Đa phần họ có gốc thành viên của các làng nghề truyền thống nhập cư Hà Nội và
tạo nên 36 phố phường ngày
trước.
Các
công đoạn chính của công nghệ sơn mài:
1. Bó hom vóc:
Việc hom bó
cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại
giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến
hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng bột đá) trộn sơn
ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp
sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài
và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc
tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn
này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc
môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ
vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm.
2. Trang
trí:
Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa,
các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất
liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau
đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.
Với kỹ thuật sơn phủ
tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối... người thợ phải làm
trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ
vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt.
3. Mài và đánh
bóng:
Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo
thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá
chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì
thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó
chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh
son mai phụ thuộc rất lớn
vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan
nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v..
Trước thập niên 1930, người ta chỉ
dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng, làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này,
một số họa sỹ Việt Nam đầu tiên đang học như Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí,
Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Trần Văn Cẩn và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã mạnh dạn thử
nghiệm đưa kỹ thuật sơn ta vào làm tranh nghệ thuật.
Địa chỉ: 112 Trần
Não, P.Bình An, Q.2 (Hồ Chí Minh)
Công ty TNHH MTV Gốm sứ Hoàng Giang